Cơ chế tác động đặc biệt của nano bạc lên vết thương

Bạc là một nguyên tố có hoạt tính kháng khuẩn tự nhiên mạnh nhất được tìm thấy trên trái đất. Kể từ cuối thế kỷ 19 các nhà y học đã sử dụng hết sức rộng rãi các chế phẩm keo bạc dưới dạng kim loại hoặc ôxit (Colargol hoặc Protargol). Dưới dạng thuốc tiêm ven - keo bạc đã được sử dụng để điều trị các bệnh viêm khớp, viêm phế quản, các bệnh đường hô hấp, cúm, viêm phổi, các vết thương có mủ; dưới dạng uống - các bệnh đường tiêu hóa, loét dạ dày; dưới dạng ngoài da - các vết thương có mủ, hoại tử, da liễu, bỏng, mụn nhọt; một số bệnh khác như giang mai, hủi, đau mắt, viêm màng não, tiền đình... Đối với các bệnh viêm phổi do nhiễm staphylococcus, streptococcus, klebiella và nấm người ta thậm chí đã từng cho bệnh nhân uống dung dịch keo bạc, bởi vì các bệnh phổi này thực tế không điều trị được bằng các loại thuốc kháng sinh bình thường.

Ở dạng nano hoạt tính này còn tăng lên gấp bội, vì vậy khi công nghệ nano được phát triển các nhà khoa học đã sớm tìm đến hướng nghiên cứu chế tạo nano bạc phục vụ cho mục đích khử trùng. Nano bạc được đặc biệt quan tâm áp dụng trong y học chủ yếu nhờ có năng lượng bề mặt rất lớn nên khi tiếp xúc với môi trường có nước chúng được xem như một “kho chứa” có khả năng giải phóng từ từ các ion bạc vào dung dịch, nhờ tác dụng khử trùng được kéo dài. Khi được pha trộn vào kem bôi nano bạc thể hiện chức năng của một tác nhân chống viêm nhiễm và diệt khuẩn phổ rộng bằng cách phá hủy các chức năng của màng tế bào vi khuẩn.

Tác dụng diệt khuẩn của nano bạc dựa trên một số cơ chế đã biết như tương tác tĩnh điện giữa ion bạc và bề mặt màng tế bào vi khuẩn, ức chế quá trình vận chuyển oxy qua màng tế bào, hoặc tương tác giữa ion bạc với DNA gây ra phản ứng đime hóa pyridin làm cản trở quá trình sao chép, dẫn đến ức chế tế bào vi khuẩn phát triển. Với cơ chế tác dụng đa dạng như vậy vi khuẩn không có khả năng tạo ra đề kháng để chống lại. Khả năng diệt khuẩn của ion bạc không dựa trên bản chất bệnh lý do vi khuẩn gây ra như là đối với các chất kháng sinh, mà dựa trên cơ chế tác dụng lên cấu trúc tế bào. Bất cứ tế bào nào không có màng bảo vệ bền vững về hóa học (vi khuẩn và virut thuộc cấu trúc loại này) đều chịu tác động của bạc. Các tế bào động vật máu nóng có cấu trúc màng hoàn toàn khác, với 2 lớp lipid giàu các liên kết đôi (cho điện tử) bao quanh, nên các ion bạc được giải phóng ra từ “kho chứa” dễ dàng bị vô hiệu hóa.

Nano bạc có khả năng hết sức đặc biệt trong việc hỗ trợ điều trị vết thương. Nhiều kết quả nghiên cứu cho thấy quá trình phục hồi tổn thương luôn diễn ra với sự có mặt của một số chất kích thích phân bào (cytokin) với chức năng khác nhau như chất cytokin “yếu tố tăng trưởng biến đổi” TGF-β(transformation growth factor - β), interleukin IL-6, IL-10, interferon IFN-g, VEGF (yếu tố tăng trưởng huyết quản nội mô) v.v... Các cytokin này có vai trò quan trọng trong các quá trình khơi mào phản ứng, duy trì hiện trạng và điều tiết các phản ứng xảy ra sau khi xuất hiện tổn thương. Chính các cytokin này là nguyên nhân làm thay đổi chất lượng điều trị vết thương theo chiều hướng tốt lên hoặc xấu đi. Chẳng hạn, trên các sẹo lồi hoặc sẹo siêu dinh dưỡng người ta phát hiện ra rằng hàm lượng cytokin TGF-β đều gia tăng đáng kể, trong khi đó trên các tổn thương không để lại sẹo thì người ta lại tìm thấy hàm lượng yếu tố này giảm hẳn. Như vậy, nếu chúng ta tìm được tác nhân có khả năng ức chế yếu tố TGF-β thì chúng ta có thể kiểm soát được phản ứng viêm và hình thành sẹo trong quá trình điều trị vết thương. Tác nhân đó chính là nano bạc.

Interleukin IL-6 là một cytokin kích thích mạnh sự phát triển của các nguyên bào sợi cần thiết cho sự phục hồi của vết thương. Do đó nếu hàm lượng IL-6 trong vết thương tăng lên quá mức, thì sau khi điều trị sẽ để lại sẹo lồi. Có nghĩa là nếu sự hiện diện của IL-6 được hạn chế, thì quá trình lành vết thương không để lại sẹo. Mặt khác, interleukin IL-10 là một cytokin hỗ trợ viêm (pro-inflamation) rất cần thiết cho giai đoạn đầu của quá trình phục hồi vết thương (đặc biệt là vết thương bỏng) nhằm chống lại tác dụng của vi khuẩn, nhưng tại giai đoạn cuối cytokin này phải được ức chế. Các đòi hỏi này đối với IL-6 và IL-10 đều được nano bạc đáp ứng.

Cytokin IFN-g do các tế bào lympho T và đại thực bào sản sinh ra, giữ vai trò quan trọng trong việc tái tạo mô của vết thương. Cụ thể là khi hàm lượng IFN-g trong vết thương tăng lên, thì quá trình sản sinh colagen bị chậm lại trong khi lượng men phân giải collagen tăng, dẫn đến sự suy giảm tốc độ co rút của diện tích vết thương. Nói cách khác là, khi lượng IFN-g tăng lên, thì tốc độ hình thành lớp colagen trên vết thương bị chậm lại, nghĩa là tạo điều kiện thuận lợi để ngăn chặn nguy cơ tạo sẹo lồi. Các tính chất này được các nhà y học điều trị rất quan tâm nghiên cứu để xử lý các tổn thương sẹo lồi hoặc tổn thương siêu dinh dưỡng. Đòi hỏi này đối với cytokin IFN-g cũng được nano bạc đáp ứng đầy đủ.

Những ưu điểm đã trình bày ở trên của nano bạc đã định hướng cho chúng tôi nghiên cứu và chế tạo thành công sản phẩm kem bôi chứa nano bạc với những tính năng như sau:
- Tiêu diệt dễ dàng các loài vi khuẩn, vi rút, bào tử, nấm; các vi sinh vật này không có khả năng đề kháng chống lại tác dụng của chế phẩm; 
-  Điều trị với hiệu quả cao các vết bỏng, vết thương nhiễm trùng, mụn nhọt trên da, hắc lào, nước ăn chân, các vết loét khó lành do nằm lâu một chỗ, các vết loét dinh dưỡng do bệnh tiểu đường;
-  Không có phản ứng phụ;
- Thời hạn sử dụng 3 năm;



                                                                                                                    By phuckhanggreentech.com