Nỗi lo về “siêu vi khuẩn” đề kháng

 

Nỗi lo về “siêu vi khuẩn” đề kháng

Thời gian mấy năm gần đây, các chuyên gia y tế trên thế giới rất lo lắng về thông tin các loại “siêu vi khuẩn”, thực chất là “vi khuẩn siêu đề kháng”, xuất hiện và lan truyền.



Ảnh minh họa


Mới đây, ngày 20/2/2015, hãng tin Reuters cho biết: một đợt lây nhiễm hết sức nghiêm trọng qua nội soi đã xảy ra ở Trung tâm Y tế Ronald Reagan trực thuộc Trường Đại học Y khoa Los Angeles, California (UCLA). Vi khuẩn gây sự lây nhiễm được xác định là CRE (Carbapenem Resistant Enterobacteriaceae) và phương tiện gây lây nhiễm chết người này là các máy nội soi tá tràng được dùng trong thủ thuật can thiệp đường mật - tụy (ERCP). Trong số 179 bệnh nhân được nội soi trong thời gian từ 3/10/2014 đến 28/1/2015 đã được báo cáo là có nguy cơ bị lây nhiễm CRE, có 7 ca phát bệnh phải được điều trị và hai trong số này đã tử vong. CRE được xem là một loại “siêu vi khuẩn” (tạm dịch từ “super bugs” hay “super bacteria”) vì có khả năng đề kháng với kháng sinh (KS) loại mới của nhóm KS carbapenem.

Mấy năm gần đây, các chuyên gia y tế trên thế giới rất lo lắng về thông tin các loại “siêu vi khuẩn” thực chất là “vi khuẩn siêu đề kháng” xuất hiện và lan truyền. Ngày Sức khỏe Thế giới (7/4/2011), WHO đã cảnh báo tình trạng đề kháng kháng sinh đang là mối quan ngại toàn cầu và việc khẩn thiết nâng cao nhận thức về việc xuất hiện các loại vi khuẩn độc hại, thông qua khẩu hiệu: “Chống kháng thuốc, không hành động hôm nay ngày mai không có thuốc chữa”. Khẩu hiệu đã được chọn như thế, bởi vì trước đó đã xảy ra khủng hoảng toàn cầu với sự xuất hiện các loại “super bugs” có khả năng đề kháng nhiều loại KS kể cả các loại dự trữ dùng trong cấp cứu nhiễm khuẩn sau cùng (carbapenem thuộc loại này).

Theo định nghĩa chuyên môn, một loại vi khuẩn đề kháng kháng sinh khi loại vi khuẩn này vẫn có thể sinh trưởng, phát triển được với sự hiện diện của một nồng độ kháng sinh cao hơn gấp nhiều lần nồng độ ngăn chặn sự sinh trưởng, phát triển của các loại vi khuẩn khác hoặc của chính loại vi khuẩn đó trước đây.

Kháng sinh đầu tiên là penicillin được sản xuất đại trà và chính thức được dùng trong điều trị bệnh nhiễm khuẩn vào năm 1945, thì vào năm 1948, người ta phát hiện vi khuẩn Staphylococcus aureus đề kháng với kháng sinh này. Vài năm sau đó, con người chống lại S. aureus đề kháng bằng cách tìm ra kháng sinh mới là nhóm methicillin. Nhưng đến năm 1961, S. aureus lại đề kháng methicillin để được gọi tên MRSA (Methicillin Resistant Staphylococcus aureus). Khi đó, muốn chống lại MRSA phải dùng vancomycin là KS quý hiếm, dự trữ sau cùng. Đến năm 1997, tai họa lại đến là vì MRSA đề kháng được cả vancomycin để nghiễm nhiên mang tên VRSA (Vancomycin Resistant Staphylococcus aureus). Hiện nay, các vi khuẩn đề kháng được gọi là “super bugs” bởi vì không chỉ có VRSA mà gần đây, có thêm vi khuẩn rất nguy hiểm đã đột biến gen mang gen tiết ra enzym New Dehli Metallo beta-lactamase (viết tắt là NDM-1) đề kháng các kháng sinh thuộc nhóm carbapenem (gồm imipenem, meropenem…) rất mạnh, thuộc loại dự trữ sau cùng chỉ dùng khi bị nhiễm khuẩn rất nặng, do carbamenem diệt được nhiều loại vi khuẩn đã mang tính đề kháng các loại kháng sinh khác. “Siêu mầm bệnh” này được nhận diện là CRE đã nêu ở trên, hay Klesiella pneumoniae thường gây bệnh viêm phổi được gọi tắt là CRKP (Carbapenem-resistant Klebsiella pneumoniae). Hiện nay, tên MRSA, VRSA, CRKP, CRE được xem là nỗi kinh hoàng của giới chức y tế. Chỉ riêng MRSA hằng năm gây chết khoảng 20.000 người ở Mỹ.



Carbapenem Resistant Enterobacteriaceae

Người ta ghi nhận chính việc sử dụng kháng sinh bừa bãi, dùng không đúng cách không đủ liều, hay quy trình tiệt trùng các dụng cụ y khoa (như dụng cụ nội soi tá tràng kể ở trên) không tuân thủ triệt để, sẽ làm cho vi khuẩn không bị tiêu diệt hết, một số khả năng thích ứng, đặc biệt có sự đột biến gen trên nhiễm sắc thể kiểm soát sự nhạy cảm đối với kháng sinh, số này tồn tại, phát triển thành “chủng” vi khuẩn mới mà kháng sinh đã sử dụng sẽ không còn tác dụng đối với chủng này nữa.

Rõ ràng đã có viễn cảnh không mấy sáng sủa về hiện tượng vi khuẩn đề kháng. Tuy nhiên, chính chúng ta, những thầy thuốc và người bệnh sử dụng thuốc, có thể góp phần cải thiện tình trạng đề kháng kháng sinh.

Đối với những trường hợp lây nhiễm vi khuẩn đề kháng thông qua các dụng cụ y khoa, nếu tai biến vẫn xảy ra khi các quy trình xử lý dụng cụ đó đã được tuân thủ nghiêm ngặt (như dùng dụng cụ nội soi tá tràng nêu ở trên) thì nhà sản xuất phải xem lại thiết kế và quy trình xử lý để sử dụng sao cho thật an toàn, không có các rủi ro. Còn nhà điều trị sử dụng các dụng cụ đó toàn tâm toàn ý tuân thủ nghiêm ngặt các thủ thuật để bảo đảm thật an toàn cho bệnh nhân.

Đối với người bệnh nên dành quyền chỉ định kháng sinh cho thầy thuốc. Không nên tự ý sử dụng kháng sinh một cách bừa bãi, không đúng lúc, không đủ liều. Khi được bác sĩ ghi đơn chỉ định dùng kháng sinh, nên dùng thuốc đúng liều lượng, đủ thời gian như đã chỉ định, không nên ngưng, bỏ thuốc nửa chừng.

Trên nguyên tắc, nếu vi khuẩn còn nhạy cảm với kháng sinh cổ điển, thông dụng thì sử dụng kháng sinh loại này và tránh dùng kháng sinh loại mới. Những kháng sinh mới thường được khuyến cáo chỉ dùng trong bệnh viện hoặc khi có sự chỉ định cân nhắc của bác sĩ điều trị. Đó là thuốc quý có tính dự trữ, nếu sử dụng bừa bãi chắc chắn trong thời gian ngắn sẽ bị lờn.

Nguồn xaluan.com